So sánh chương trình giáo dục mới với chương trình hiện hành
So với 3 cấp học thì chương trình học ở bậc tiểu học thường ít biến đổi hơn cả, ngoài việc xuất hiện thêm môn học mới là môn công nghệ và môn tin học cùng với việc làm quen với tiếng anh lớp 1 lớp 2.
So sánh kế hoạch giáo dục giữa chương trình giáo dục tiểu học hiện hành và chương trình giáo dục mới như sau:
Mặc dù có một số thay đổi, nhưng thời lượng học môn Tiếng Việt vẫn bằng thời lượng học trong chương trình hiện hành; với 1.505 tiết (trung bình 43 tiết/tuần), chiếm 31% tổng thời lượng chương trình dành cho các môn học bắt buộc.
Việc này đảm bảo cho học sinh đọc viết thông thạo, tạo tiền đề cho học sinh học những môn khác đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số có đủ thời gian học tiếng Việt thì càng quan trọng.
Các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc ở tiểu học gồm 10 môn và 1 hoạt động:
Ngoại ngữ 1 (Lớp 3,4,5);: Tiếng Việt; Toán; Đạo đức; Ngoại ngữ 1 (Lớp 3,4,5); Tự nhiên và xã hội (Lớp 1,2,3); Lịch sử và Địa lí (Lớp 4,5); Khoa học (Lớp 4,5); Tin học và Công nghệ (Lớp 3,4,5); Giáo dục thể chất; Nghệ thuật (Âm nhạc và Mỹ thuật) và Hoạt động trải nghiệm (trong đó có nội dung giáo dục của địa phương).
Nội dung môn Giáo dục thể chất được thiết kế thành các học phần với nội dung thiên về hướng trải nghiệm, học sinh được lựa chọn học phần để phù hợp với thể trạng, sự yêu thích và khả năng tổ chức của nhà trường.
Các môn học tự chọn (dạy ở những nơi có đủ điều kiện dạy học và phụ huynh học sinh có nguyện vọng): Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 1 (dạy tăng cường ở lớp 1, lớp 2).
Chương trình giáo dục tiểu học được thiết kế để thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết, mỗi tiết không quá 35 phút. Các cơ sở giáo dục chưa đủ điều kiện dạy học 2 buổi/ngày thực hiện kết hoạch giáo dục theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT.
https://credit-n.ru/order/kreditnye-karty-alfa-bank.html